(Chinhphu.vn) - Sáng 20/4, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị công bố và triển khai quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến 2050 và Hội nghị toàn quốc về đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch thời kỳ 2021-2030.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tới dự Hội nghị công bố và triển khai quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến 2050 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Hội nghị công bố và triển khai quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến 2050 lấy chủ đề "Tư duy mới - Tầm nhìn mới - Cơ hội mới - Giá trị mới", được kết nối trực tuyến đến 63 điểm cầu là các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước.
Tham dự Hội nghị tại đầu cầu Hà Nội có Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang; lãnh đạo các Ban Đảng, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; Bộ trưởng các Bộ: Ngoại giao, KH&ĐT, Quốc phòng, Tư pháp, Tài chính, Công Thương, LĐTB&XH, GTVT, Xây dựng, TT&TT, NN&PTNT, Y tế, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP, Thống đốc NHNN, Tổng Thanh tra Chính phủ; đại diện các đối tác phát triển, các nhà khoa học, các chuyên gia.
Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Văn Nên, các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh tham dự tại các điểm cầu tỉnh, thành phố.

Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng công bố Nghị quyết số 81/2023/QH15 của Quốc hội về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng công bố Nghị quyết số 81/2023/QH15 của Quốc hội về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Bộ trưởng cũng nêu tóm tắt những nội dung chủ yếu của Quy hoạch với những nội dung chính: Quan điểm phát triển, mục tiêu phát triển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, các định hướng phát triển không gian kinh tế-xã hội, phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia, định hướng phát triển không gian biển, định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành quan trọng, định hướng phát triển hạ tầng cấp quốc gia...
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết: Thực hiện Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09/01/2023 của Quốc hội, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các bộ, ngành và địa phương xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 81/2023/QH15. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng, xin ý kiến và hoàn thiện dự thảo Nghị quyết trình Chính phủ. Nội dung dự thảo Nghị quyết đã cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp và giao trách nhiệm cho các bộ, ngành và địa phương tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia. Ngay sau Hội nghị này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan hoàn thiện Nghị quyết, trình Chính phủ ban hành.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ: Quy hoạch tổng thể quốc gia (QHTTQG) có ý nghĩa rất quan trọng và được xây dựng dựa trên Định hướng QHTTQG đã được Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XIII thông qua tại Kết luận số 45-KL/TW ngày 17/11/2022.
Tại phiên bế mạc Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Ban Chấp hành Trung ương đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu, thảo luận, tạo sự thống nhất cao về sự cần thiết phải ban hành và tổ chức thực hiện thật tốt Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trung ương coi đây là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng là vấn đề rất rộng lớn, rất mới, rất khó, rất nhạy cảm và chưa có tiền lệ".
QHTTQG lần đầu tiên được xây dựng ở nước ta, là quy hoạch vừa mang tính tổng thể, vừa mang tính chiến lược, bao trùm mọi lĩnh vực KTXH và được lập cho 10 năm (trước đây chỉ có chiến lược phát triển KTXH của cả nước). Do đó, việc QHTTQG được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 81/2023/QH15 là một bước quan trọng và có thể được đúc kết lại trong 12 chữ "Tư duy mới - Tầm nhìn mới - Cơ hội mới - Giá trị mới".
Tiếp tục cụ thể hóa Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, kế hoạch 5 năm, chiến lược 10 năm được Đại hội XIII thông qua, QHTTQG là căn cứ pháp lý, công cụ quan trọng giúp Nhà nước hoạch định, kiến tạo động lực, không gian phát triển, bảo đảm tính kết nối đồng bộ giữa quy hoạch cấp quốc gia với quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh, nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của đất nước để phát triển KTXH nhanh, bao trùm và bền vững (hay nói cách khác QHTTQG là căn cứ để lập Quy hoạch không gian biển quốc gia, Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, Quy hoạch ngành quốc gia, Quy hoạch vùng và Quy hoạch các địa phương); đẩy nhanh việc thực hiện đột phá chiến lược về phát triển hạ tầng; đồng thời loại bỏ các quy hoạch chồng chéo, cản trở phát triển, gây khó khăn cho việc huy động các nguồn lực của doanh nghiệp và người dân, phát huy tối đa các nguồn lực trong hoạt động đầu tư và phát triển của cả đất nước, của từng vùng và từng địa phương với tầm nhìn dài hạn, tổng thể.
Sau khi được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09/01/2023 của Quốc hội và Kế hoạch thực hiện QHTTQG thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trình Chính phủ ban hành, triển khai.
Sau khi các quy hoạch được phê duyệt, phải có các dự án, đề án cụ thể, bố trí nguồn lực để thực hiện, mang lại hiệu quả cân đong đo đếm được, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, vì mục tiêu đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, Thủ tướng nhấn mạnh.
10 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Thủ tướng yêu cầu các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng yêu cầu các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, trong đó lưu ý một số trọng tâm sau:
Thứ nhất, phải quán triệt nội dung của QHTTQG để thực hiện trong từng cơ quan, đơn vị; rà soát, cập nhật và cụ thể hóa các nội dung của QHTTQG vào các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch cấp tỉnh đã phê duyệt hoặc đang thẩm định, đang lập, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của các cấp quy hoạch. Bộ KH&ĐT sớm hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện QHTTQG của Chính phủ để phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ, ngành, địa phương và cơ quan có liên quan.
Thứ hai, ưu tiên bố trí nguồn lực để thực hiện có hiệu quả QHTTQG, nhất là tập trung nguồn vốn thực hiện các chương trình, dự án quan trọng quốc gia; đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án quan trọng quốc gia đã được cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư; làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư để triển khai các dự án theo Nghị quyết số 81/2023/QH15 phải đảm bảo các nguyên tắc:
- Đảm bảo tính đồng bộ, liên kết, thống nhất, không chồng lấn, mâu thuẫn giữa các chương trình, dự án của các ngành, các địa phương. Phân bổ nguồn lực có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với khả năng huy động nguồn vốn.
- Ưu tiên vốn đầu tư công cho các dự án hạ tầng kỹ thuật quy mô lớn mang tính liên vùng, liên tỉnh kết nối các vùng động lực quốc gia, các hành lang kinh tế; các công trình có sức lan tỏa cao, giải quyết nhu cầu thiết yếu, các nút thắt của vùng, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Phát huy vai trò dẫn dắt của vốn đầu tư công để kích hoạt, huy động, thu hút mọi nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực tư nhân tham gia các công trình đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP).
- Ưu tiên nguồn lực triển khai các chương trình về giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học có tính liên vùng góp phần giải quyết an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, bảo tồn, tôn tạo và phát triển bản sắc văn hóa đa dạng, đặc sắc.
Thứ ba, về cơ chế, chính sách:
- Xây dựng cơ chế, chính sách theo hướng tăng cường phân cấp huy động, sử dụng nguồn lực đầu tư ở Trung ương và địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương cùng đầu tư ngân sách vào các hạ tầng dùng chung, hạ tầng liên kết vùng, các công trình hạ tầng kết nối giữa các trung tâm phát triển của địa phương với hệ thống hạ tầng quốc gia.
- Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển các vùng động lực, phát triển các hành lang kinh tế ưu tiên; cơ chế, chính sách ưu đãi, đầu tư và khai thác có hiệu quả các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, các trung tâm đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.
- Xây dựng chính sách hỗ trợ, nâng cao năng lực cơ sở đào tạo các ngành ưu tiên gắn với ứng dụng công nghệ tiên tiến, các ngành khoa học nền tảng cho phát triển khoa học, công nghệ; chính sách ưu đãi để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành ưu tiên trong các vùng động lực.
NSNN đối với đất đai, tài sản, tài nguyên; cơ chế khai thác nguồn lực từ đất đai cho phát triển. Tăng cường nguồn thu cho NSNN từ đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất theo quy hoạch và tại các khu vực phát triển đô thị để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị. Xây dựng cơ chế, chính sách về khuyến khích đầu tư giảm phát thải trong các ngành, lĩnh vực, tập trung cho phát triển xanh, bền vững.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách về văn hoá đáp ứng yêu cầu phát triển để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo sinh kế, việc làm, sắp xếp ổn định dân cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại phục vụ nhu cầu thông tin của người dân.
Thứ tư, về thu hút đầu tư phát triển
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch và hiệu quả. Hoàn thiện khung khổ luật pháp, chính sách phát triển các loại thị trường vốn, nhất là thị trường chứng khoán, thị trường vốn đầu tư mạo hiểm, thị trường bất động sản, huy động nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
- Đổi mới mạnh mẽ chính sách và cách thức thu hút đầu tư nước ngoài và chuẩn bị đồng bộ các điều kiện như hạ tầng, thể chế, nhân lực... và bố trí không gian phát triển để thu hút nguồn lực, tăng hiệu quả đầu tư nước ngoài phục vụ cho các mục tiêu phát triển.
- Huy động vốn vay nước ngoài với lãi suất ưu đãi, phù hợp để ưu tiên đầu tư cho các dự án trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng gắn với phát triển bền vững, có hiệu ứng lan tỏa như hạ tầng giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu, năng lượng sạch, nhằm hỗ trợ chuyển đổi năng lượng, nâng cao chất lượng môi trường, phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.
- Thu hút các doanh nghiệp lớn có uy tín, năng lực tài chính, công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, hệ thống quản lý hiện đại, các tập đoàn đa quốc gia hàng đầu thế giới đầu tư vào các vùng động lực, hình thành những cụm liên kết ngành, tạo sức lan tỏa lớn, thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế trong nước.
Thứ năm, về phát triển nguồn nhân lực
- Tập trung phát triển nguồn nhân lực bền vững, bảo đảm cân đối tổng thể, hài hòa với định hướng phân bố dân cư. Xây dựng chính sách, giải pháp đột phá về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Thu hút và sử dụng hiệu quả trí tuệ, nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là cán bộ khoa học kỹ thuật ở nước ngoài về công tác tại Việt Nam hoặc cộng tác lâu dài với Việt Nam, cán bộ khoa học kỹ thuật làm việc lâu dài tại các vùng khó khăn và phát triển nguồn nhân lực tại các vùng khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
Thứ sáu, chăm lo công tác an sinh xã hội
- Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, các chính sách và giải pháp bảo đảm an sinh xã hội gắn với tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Quan tâm đầu tư các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện KTXH đặc biệt khó khăn; hỗ trợ, tạo điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Từng bước phát triển khu vực khó khăn thông qua xây dựng hạ tầng kết nối khu vực khó khăn với các hành lang kinh tế, kết nối các khu vực biên giới khó khăn với phát triển các khu kinh tế cửa khẩu.
- Triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện KTXH đặc biệt khó khăn; tạo sinh kế, việc làm bền vững, sắp xếp ổn định dân cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng biên giới.
Thứ bảy, về khoa học, công nghệ và môi trường
- Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở nâng cao năng suất, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, phù hợp điều kiện, hoàn cảnh và nguồn nhân lực của Việt Nam.
- Lựa chọn và tập trung triển khai nghiên cứu ứng dụng phát triển công nghệ cho một số ngành, lĩnh vực then chốt. Ưu tiên triển khai nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới, tập trung ưu tiên phát triển công nghệ có khả năng ứng dụng cao, nhất là công nghệ số, sinh học, trí tuệ nhân tạo, cơ điện tử, tự động hoá, điện tử y sinh, năng lượng, môi trường.
- Tăng cường các biện pháp quản lý, cải tạo và phục hồi chất lượng môi trường không khí, nước, đất tại các đô thị lớn, lưu vực sông, biển; quản lý tốt chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nhựa. Rà soát, kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải lớn; tăng cường các biện pháp phòng ngừa các nguy cơ xảy ra sự cố môi trường; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Thứ tám, về nguồn lực tài chính thực hiện quy hoạch
- Tiếp tục cơ cấu lại NSNN, bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển theo hướng tăng dần cho chi đầu tư phát triển và giảm dần chi thường xuyên một cách hợp lý. Cơ cấu lại chi đầu tư công theo hướng trọng tâm, trọng điểm và không dàn trải, nâng cao hiệu quả, hiệu lực phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công.
- Đẩy nhanh thoái vốn nhà nước, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước không thuộc danh mục mà Nhà nước cần nắm giữ, thực hiện giao, khoán, cho thuê DNNN, tạo dư địa cho huy động nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư phát triển KTXH.
- Giải quyết dứt điểm tình trạng đầu tư dàn trải.
Thứ chín, đẩy mạnh hợp tác quốc tế
- Tăng cường hợp tác với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế, tổ chức tài chính, cơ quan tài trợ để huy động nguồn lực tài chính cho các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, dự án hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực để tăng cường kết nối kinh tế trong và ngoài khu vực ASEAN.
- Chủ động thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, nhất là tạo điều kiện tiếp cận thuận lợi hơn nữa với các thị trường lớn, quan trọng cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Thực hiện hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA), phát huy tối đa lợi ích mà các FTA thế hệ mới mang lại mà Việt Nam là thành viên.
- Chủ động và tham gia tích cực các điều ước quốc tế, cơ chế hợp tác song phương, đa phương; thực hiện hiệu quả thỏa thuận quốc tế về biến đổi khí hậu, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khai thác và sử dụng tài nguyên nước xuyên biên giới.
Thứ mười, bảo đảm quốc phòng, an ninh
- Chủ động xây dựng kế hoạch, phương án tác chiến; nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược, các khu kinh tế - quốc phòng phù hợp với chiến lược, đề án quốc phòng, an ninh.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trên biển nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
- Xây dựng đồng bộ hệ thống tổ chức phòng thủ dân sự, sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống; thực hiện có hiệu quả công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả.
Triển khai thực hiện có hiệu quả, thực chất, toàn diện QHTTQG

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Việc triển khai và thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu của QHTTQG là nhiệm vụ rất nặng nề, khó khăn, cần quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả của các cấp chính quyền - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Với tư duy mới, tầm nhìn mới để tìm kiếm không gian, cơ hội phát triển mới, tạo nên những giá trị mới khi triển khai Nghị quyết số 81 của Quốc hội, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng đề nghị các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả với Chính phủ, các cấp chính quyền tổ chức triển khai QHTTQG, đồng thời thực hiện vai trò giám sát tối cao của Quốc hội, vai trò phản biện, đóng góp ý kiến của các tổ chức chính trị - xã hội.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng yêu cầu các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
(i) Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nghiêm túc triển khai thực hiện có hiệu quả, thực chất, toàn diện mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09/01/2023 của Quốc hội và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nêu tại Nghị quyết này; chủ động triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể của Bộ, cơ quan Trung ương và của địa phương mình; kịp thời xử lý vấn đề phát sinh, đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc giám sát, tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm toàn diện trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về kết quả thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành, địa phương mình.
(ii) Khẩn trương xây dựng, ban hành Kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ được giao chủ trì ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 81/2023/QH15 của Quốc hội, trình cấp có thẩm quyền theo đúng thời hạn yêu cầu; trong đó xác định rõ, đầy đủ các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, tiến độ thực hiện, dự kiến kết quả đầu ra đối với từng nhiệm vụ và phân công các đơn vị thực hiện và người lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp.
(iii) Khẩn trương hoàn thành việc lập, trình cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trong năm 2023, đảm bảo phù hợp, thống nhất và đồng bộ với QHTTQG đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 81/2023/QH15; xây dựng kế hoạch thực hiện quy hoạch, trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt để triển khai thực hiện.
(iv) Chỉ đạo việc rà soát các quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia đã được cấp có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt theo quy định của Luật Quy hoạch, nếu có mâu thuẫn với quy hoạch cao hơn thì trình cấp có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt quy hoạch cho chủ trương điều chỉnh. Việc điều chỉnh quy hoạch trong trường hợp có mâu thuẫn với quy hoạch cao hơn thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 61/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội.
(v) Kịp thời đề xuất các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
(vi) Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát tiến độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; định kỳ hằng năm, tổng hợp, đánh giá tình hình thực hiện bằng văn bản, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo quy định của pháp luật về quy hoạch, kịp thời điều chỉnh những vấn đề phát sinh, những vấn đề khó khăn cần tháo gỡ.
Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo các cơ quan báo chí, hệ thống thông tin cơ sở phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia và các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xác định tại Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 81/2023/QH15 của Quốc hội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát các Bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương thực hiện các nhiệm vụ được giao; định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Thủ tướng nhấn mạnh: Việc làm quy hoạch đã khó, nhưng tổ chức thực hiện còn khó hơn nữa. Việc triển khai và thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu của QHTTQG là nhiệm vụ rất nặng nề, khó khăn, cần quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả của các cấp chính quyền. Chính phủ mong nhận được sự quan tâm phối hợp chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Quốc hội, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và sự vào cuộc quyết liệt của các cấp chính quyền cũng như sự quan tâm, đồng hành của các đối tác phát triển, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cộng đồng doanh nghiệp, toàn xã hội và tất cả người dân.

Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đại biểu thực hiện nghi thức bấm nút khai trương Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch.
Hội nghị toàn quốc về đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch thời kỳ 2021-2030

Thủ tướng Phạm Minh Chính, các Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Trần Lưu Quang chủ trì Hội nghị toàn quốc về đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch thời kỳ 2021-2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Ngay sau Hội nghị công bố và triển khai quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến 2050, Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp tục chủ trì Hội nghị toàn quốc về đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch thời kỳ 2021-2030.
Phát biểu khai mạc, Thủ tướng nêu rõ: Hội nghị này rất quan trọng để các Bộ, ngành, địa phương nhận thức được hơn nữa tầm quan trọng của công tác quy hoạch, đặc biệt là công tác lập, thẩm định, phê duyệt các loại quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia theo quy định của Luật Quy hoạch hiện đang chậm so với tiến độ đề ra. Đây cũng là cơ hội để chúng ta rà soát các công việc, nhiệm vụ đã làm được, chưa làm được; những khó khăn, vướng mắc, nhất là các công việc, nhiệm vụ mà Quốc hội, Chính phủ giao cho các Bộ, ngành, địa phương.
Việc triển khai Luật Quy hoạch là nhiệm vụ quan trọng của Chính phủ nhiệm kỳ XV và các bộ, ngành, địa phương cụ thể hóa và triển khai Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021 - 2025 và Chiến lược phát triển phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đã được Đảng và Quốc hội thông qua để thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Thời gian qua, Trung ương, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, nhất là thể chế, cơ chế, chính sách trong triển khai Luật Quy hoạch. Các địa phương đã nâng cao nhận thức về công tác quy hoạch, về tầm quan trọng, vị trí, vai trò của công tác quy hoạch trong phát triển KTXH của các ngành, địa phương.
Sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 61/2022/QH15, Chính phủ đã ban hành ngay Nghị quyết số 108/NQ-CP để giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương; theo đó, các Bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương rà soát, xây dựng và bám sát thực hiện theo lộ trình, tiến độ và kế hoạch cụ thể đối với từng giai đoạn của quá trình lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch theo nhiệm vụ được phân công.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc triển khai lập quy hoạch đang gặp một số khó khăn, vướng mắc, tiến độ lập quy hoạch đang bị chậm, chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn. Số lượng quy hoạch còn lại mà các Bộ, ngành, địa phương phải hoàn thành trong năm 2023 là rất lớn.

Thủ tướng nhấn mạnh: Hội nghị là cơ hội để chúng ta rà soát các công việc, nhiệm vụ đã làm được, chưa làm được; những khó khăn, vướng mắc, hất là các công việc, nhiệm vụ được giao - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Để đẩy nhanh tiến độ và tăng cường chất lượng lập các quy hoạch thời kỳ 2021-2030 thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia, Thủ tướng đề nghị lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương tập trung báo cáo và thảo luận về những nội dung như sau:
Một là, tiếp tục đánh giá kết quả công tác quy hoạch; rà soát, nêu rõ những khó khăn, vướng mắc, nhất là những vấn đề, vướng mắc từ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến quy hoạch.
Hai là, kết quả việc thực hiện nhiệm vụ rà soát, sửa đổi hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật liên quan đến công tác quy hoạch theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 108/NQ-CP ngày 26/8/2022 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 61/2022/NQ/QH15.
Ba là, tiến độ lập, thẩm định, phê duyệt các quy hoạch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, nhất là chất lượng của các quy hoạch bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với QHTTQG; những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân.
Bốn là, kiến nghị các giải pháp kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là về thể chế và tổ chức thực hiện; xem xét, đề xuất điều chỉnh và cam kết về tiến độ lập, thẩm định, trình phê duyệt các quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, qua đó đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch và nâng cao chất lượng quy hoạch, phấn đấu hoàn thành trong năm 2023, các quy hoạch phù hợp quy hoạch tổng thể quốc gia, phù hợp với thực tế, mang lại hiệu quả cân đong đo đếm được.
Năm là, dự kiến sau hội nghị, Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành Chỉ thị của Thủ tướng đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đề nghị các đại biểu có ý kiến cụ thể với dự thảo Chỉ thị.
“Đây là lần đầu tiên, không tránh khỏi những vướng mắc, bất cập, quan trọng nhất là trong quá trình tổ chức thực hiện, chúng ta kịp thời phát hiện những vướng mắc, bất cập, những vấn đề chưa sát với thực tế, chưa có tính khả thi cao, kịp thời điều chỉnh, trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Với tinh thần không cầu toàn, không nóng vội, chúng ta cần tổ chức tốt, nghiêm túc QHTTQG có hiệu quả, đảm bảo mục tiêu đề ra, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự vào cuộc, giám sát tối cao của Quốc hội, sự đồng hành của cả hệ thống chính trị”, Thủ tướng phát biểu.

Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương báo cáo tóm tắt về tình hình triển khai công tác quy hoạch - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Báo cáo tóm tắt về tình hình triển khai công tác quy hoạch theo nhiệm vụ được Chính phủ phân công, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương cho biết: Với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, tiến độ quy hoạch đã được đẩy nhanh hơn, chất lượng quy hoạch từng bước được nâng cao hơn. Đặc biệt, Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Quốc hội thông qua có ý nghĩa quan trọng trọng việc định hình không gian phát triển dài hạn của đất nước; là cơ sở để các ngành, các vùng, các địa phương triển khai lập quy hoạch thời kỳ 2021-2030 đảm bảo thống nhất, đồng bộ.
Nội dung quy hoạch thời kỳ 2021-2030 ngày càng chú trọng hơn về tính đa ngành, lĩnh vực, sự liên kết liên ngành, liên tỉnh và đã áp dụng công nghệ mới, tiên tiến vào công tác quy hoạch, góp phần nâng cao chất lượng quy hoạch.
Báo cáo của Bộ KH&ĐT cũng kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm để chỉ đạo triển khai hiệu quả công tác quy hoạch trong giai đoạn tới.

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Tường Văn: Các địa phương tập trung rà soát quy hoạch chung đô thị, hoặc là xây dựng đồng thời với quá trình lập thẩm định quy hoạch tỉnh - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Tường Văn: Về tình hình thực hiện quy hoạch quốc gia, Bộ Xây dựng đang được giao 2 quy hoạch. Thứ nhất là Quy hoạch Thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản vật liệu xây dựng. Hiện Bộ Xây dựng đang trình hội đồng thẩm định quốc gia, và dự kiến hoàn thiện trình chính phủ trong quý II/2023.
Thứ hai, Quy hoạch Hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia, Bộ đã hoàn thành dự thảo. Hiện Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 390 thành lập Hội đồng thẩm định Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia. Bộ Xây dựng sẽ trình Hội đồng sớm Quy hoạch này.
Liên quan đến trách nhiệm của Bộ Xây dựng trong tháo gỡ khó khăn vướng mắc theo Nghị quyết 61 và Nghị quyết 108, về vấn đề thể chế, Bộ Xây dựng đã phối hợp với Bộ KH&ĐT nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định 37 quy định chi tiết trong lĩnh vực quy hoạch.
Bộ cũng đã phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng dự thảo thông tư hướng dẫn sử dụng kinh phí để lập thẩm định phê duyệt quy hoạch.
Thứ nhất, đối với nội dung lập quy hoạch, Bộ đã tổ chức lập thẩm định tích hợp quy hoạch chung, gồm 2 hợp phần là hợp phần đô thị, nông thôn và hợp phần thăm dò khai thác chế biến để cùng Bộ KH&ĐT tích hợp vào quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.
Thứ hai, hướng dẫn các địa phương tổ chức lập các quy hoạch chung đô thị, quy hoạch khu chức năng, quy hoạch xây dựng vùng, đồng thời với việc xây dựng quy hoạch tỉnh.
Từ năm 2019, Bộ Xây dựng đã tổ chức thẩm định 36 quy hoạch chung thuộc thẩm quyền quy hoạch của chính phủ và góp ý cho hàng trăm quy hoạch chung đô thị thuộc thẩm quyền địa phương. Qua quá trình theo dõi, khi triển khai Nghị quyết 61 và Nghị quyết 108, Bộ nhận thấy một số vướng mắc, khó khăn. Trước tiên, về nội hàm tích hợp, chúng ta chưa có thống nhất cụ thể trong lĩnh vực quản lý của Bộ Xây dựng để đưa ra các phương án về hệ thống quy hoạch đô thị, phát triển đô thị.
Hiện có 5 thành phố Trung ương, việc thực hiện đồng thời 2 quy hoạch tỉnh và quy hoạch xây dựng đô thị đang có những nội dung chưa được cụ thể, dẫn đến khó khăn cho 5 địa phương này.
Thứ ba, trình tự thủ tục, trách nhiệm của các cơ quan khi thẩm định hợp phần quy hoạch.
Thứ tư, liên quan đến nguồn huy động tiếp nhận sử dụng các nguồn lực để tổ chức thẩm định quy hoạch. Đến nay, có rất nhiều địa phương đang huy động nguồn lực tài trợ, nguồn vốn nước ngoài để phục vụ cho công tác này.
Liên quan đến quy hoạch, xây dựng đô thị có vấn đề lập các quy hoạch chung đô thị mới. Hiện nhu cầu đô thị mới được hình thành nhưng chưa có quy hoạch, do đó các địa phương rất mong muốn lập quy hoạch này.
Bộ Xây dựng kiến nghị rà soát, sửa đổi Nghị định 37, về quy định vấn đề hướng dẫn quy hoạch, trong đó có vấn đề tích hợp quy hoạch. Bộ Xây dựng trình sớm được các bộ ngành phối hợp để điều chỉnh quy hoạch đô thị nông thôn. Bộ mong Thủ tướng Chính phủ cho chủ trương để các tỉnh lập các đô thị mới.
Rất mong các địa phương tập trung rà soát quy hoạch chung đô thị, hoặc là xây dựng đồng thời với quá trình lập thẩm định quy hoạch tỉnh. Hiện có nhiều địa phương đã chủ động trong công tác này, như Vĩnh Phúc, Hải Dương, Bình Dương, Quảng Ninh. Tuy nhiên, vẫn có một số địa phương chưa tập trung cho công tác này. Do đó, mong các tỉnh quan tâm hơn nữa đến công tác này trong thời gian tới.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Đề nghị các địa phương phải đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, khi đó ta mới bảo đảm có cơ sở hợp lý để thực hiện.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên thông tin về các quy hoạch thuộc thẩm quyền của Bộ Công Thương - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên: Thực hiện Luật Quy hoạch và chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương được giao tổ chức lập 5 quy hoạch ngành quốc gia. Đến nay, Bộ đã tổ chức lập 4 quy hoạch, gồm: Quy hoạch Năng lượng quốc gia; Quy hoạch Điện lực quốc gia; Quy hoạch Thăm dò, khai thác khoáng sản và Quy hoạch Hạ tầng dự trữ xăng dầu, khí đốt. Riêng Quy hoạch Thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng phóng xạ chưa được triển khai vì chưa có kết quả về đánh giá tiềm năng tài nguyên. Việc này thuộc trách nhiệm của ngành tài nguyên môi trường.
Trừ Quy hoạch Thăm dò, khai thác, sử dụng quặng phóng xạ, đến nay, Bộ Công Thương đã cơ bản hoàn thành công tác lập, thẩm định tất cả các quy hoạch được giao và cơ bản đủ điều kiện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Quá trình triển khai lập quy hoạch, Bộ đã tuân thủ đầy đủ, nghiêm túc Luật Quy hoạch và các nghị định, nghị quyết có liên quan. Tuy nhiên, tiến độ lập quy hoạch chưa đạt được như dự kiến vì một số lý do.
Một là quy hoạch ngành quốc gia đang được triển khai trong khi chưa có Quy hoạch tổng thể quốc gia.
Thứ hai, nhiều quy hoạch các cấp, các ngành được lập đồng thời, trong khi Quy hoạch ngành quốc gia phải bảo đảm tích hợp nội dung giữa các quy hoạch liên quan và nguồn nhân lực để thực thi nhiệm vụ này còn hạn chế.
Thứ ba, một số quy hoạch chịu tác động mạnh mẽ của tình hình quốc tế, cần rà soát, điều chỉnh nhiều lần, như Quy hoạch điện VIII dù được triển khai điều chỉnh tới 4 lần nhưng vẫn phải tiếp tục điều chỉnh bởi những cam kết với quốc tế tại COP26, COP 27. Cũng vì Quy hoạch điện VIII như vậy nên Quy hoạch Năng lượng quốc gia mới chỉ lấy số liệu giả định.
Để sớm hoàn thành nhiệm vụ lập quy hoạch thời kỳ 2021-2030 theo chỉ đạo của Quốc hội và Chính phủ, Bộ Công Thương kiến nghị như sau:
Thứ nhất, Quy hoạch Điện lực quốc gia đã được tiếp thu, hoàn thiện theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ kiện toàn Hội đồng thẩm định quốc gia và cho thẩm định lần cuối để có thể trình duyệt trong thời gian sớm nhất.
Thứ hai, Quy hoạch Thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản và Quy hoạch Hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt đã được Hội đồng thẩm định quốc gia thông qua. Kính đề nghị Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà cho ý kiến lần cuối để Bộ hoàn thiện hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thứ ba, về Quy hoạch Năng lượng quốc gia, Bộ Công Thương đã tổng hợp ý kiến các thành viên Hội đồng thẩm định và trình lãnh đạo Hội đồng cho phép tổ chức họp Hội đồng thẩm định quốc gia. Kính đề nghị Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà, Chủ tịch Hội đồng thẩm định, sớm cho ý kiến về lịch họp, thẩm định Quy hoạch.
Thứ tư, đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp, sớm cung cấp thông tin về việc thực hiện Đề án đánh giá tiềm năng tài nguyên Uranium và xác nhận sản phẩm của Đề án để Bộ Công Thương có cơ sở trình cấp có thẩm quyền cho phép tổ chức lập quy hoạch này.
Thứ năm, đề nghị các địa phương khẩn trương nghiên cứu, cập nhật các định hướng, nhiệm vụ, giải pháp Quy hoạch ngành quốc gia để bổ sung, tích hợp vào quy hoạch cấp tỉnh, bảo đảm sự đồng bộ, liên thông giữa các cấp quy hoạch theo quy định, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện.

Bộ trưởng NN&PTNT Lê Minh Hoan thông tin về các quy hoạch thuộc lĩnh vực Bộ phụ trách - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Bộ trưởng NN&PTNT Lê Minh Hoan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có 4 quy hoạch gồm: Quy hoạch lâm nghiệp; Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thuỷ lợi; Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thuỷ sản; Quy hoạch hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão.
Đến thời điểm này, tiến độ triển khai lập 4 quy hoạch này như sau:
Đối với Quy hoạch lâm nghiệp thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050: đã tổ chức họp thẩm định, đang hoàn thiện hồ sơ và báo cáo thẩm định để trình Thủ tướng phê duyệt; hy vọng tháng này sẽ xong.
Đối với Quy hoạch Phòng, chống thiên tai và thuỷ lợi: đã tổ chức họp và thông qua báo cáo thẩm định, đang hoàn thiện hồ sơ để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Về Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thuỷ sản, Quy hoạch hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh, trú bão thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050: Đã thành lập Hội đồng thẩm định, đang hoàn thiện hồ sơ để họp Hội đồng thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch theo quy định.
4 quy hoạch mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được phân công thực hiện thì 1 quy hoạch đã sẵn sàng để Thủ tướng Chính phủ chuẩn bị phê duyệt; quy hoạch thứ 2 đang hoàn thiện hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; 2 quy hoạch còn lại đang thành lập Hội đồng thẩm định, hoàn thiện hồ sơ.

Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Trần Sỹ Thanh: Hà Nội phấn đấu trong tháng 10/2023 sẽ xong vấn đề nguồn kinh phí cho quy hoạch - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Trần Sỹ Thanh: Tháng 3/2022, Thủ tướng đã phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch cho Hà Nội. Đến thời điểm này, Hà Nội mới xong bước chấm thầu để lập quy hoạch. Đây là việc khá chậm, Hà Nội xin nhận lỗi với Thủ tướng và Chính phủ. Nguyên nhân ở đây bao gồm cả chủ quan và khách quan. Như đã báo cáo, anh em ở dưới địa phương còn rất lúng túng trong câu chuyện nguồn. Nguồn đầu tư công quy trình quá lâu. Việc làm quy hoạch đầu tư công quá lâu nhưng nếu làm nguồn vốn sự nghiệp thì không lại được phép. Ngay như Hà Nội cũng lúng túng mất 6-7 tháng về vấn đề nguồn. Đợt này chúng tôi quyết tâm dứt điểm cho kịp; Thành ủy Hà Nội đặc biệt quan tâm, lãnh đạo chỉ đạo, chúng tôi phấn đấu quyết tâm tháng 10 sẽ xong.
Về kiến nghị, với quy trình hiện nay, ảnh hưởng trực tiếp đến việc lập quy hoạch có 6 luật: Luật Quy hoạch 2017, Luật Đô thị 2009 và Luật Xây dựng 2014,b Bên cạnh đó là Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công và Luật Ngân sách. Có mấy vấn đề!
Một là khái niệm nội hàm, định nghĩa trong các luật này khác nhau. Luật Dự án quy hoạch, nhiệm vụ quy hoạch, đồ án quy hoạch… rất lủng củng. Đây là về mặt khái niệm, chúng ta triển khai hằng ngày đã khó.
Thứ hai là quy trình, thủ tục, như Bộ KH&ĐT trình bày là quá dài.
Thứ ba là câu chuyện áp dụng Luật Đầu tư công để chi tiêu đấu thầu. Đầu tiên, sau khi Thủ tướng phê duyệt kế hoạch là đấu thầu để lựa chọn nhà tư vấn, mà quy trình đấu thầu mất vài tháng. Bên cạnh đó, 5 thực tế của đơn vị tư vấn báo cáo theo quy định của luật thì cả nước cũng chỉ có một vài đơn vị đủ khả năng làm tư vấn. Chúng ta đồng loạt triển khai trên 63 tỉnh, thành phố nên khối lượng việc rất lớn, rồi quy định một chuyên gia được làm bao nhiêu cái dự án cũng ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng công tác quy hoạch.
Chính vì vậy, chúng tôi đề nghị, đây cũng là công việc hành chính. Mong Thủ tướng và Chính phủ ra Nghị quyết sửa một số điều để thời gian triển khai rút ngắn lại. Những kiến nghị của Hà Nội rất cụ thể, đã gửi Bộ KH&ĐT, trình bày mấy vấn đề liên quan đến chất lượng cũng như tiến độ.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Tôi đề nghị Hà Nội sớm tri